Champa hay Chiêm Thành là quốc gia cổ của người Chăm nằm ven biển miền Trung của Việt Nam. Lịch sử Champa bắt đầu từ thế kỉ thứ 2 Công Nguyên, có nền văn minh Sa huỳnh lâu đời, tương đương với nền văn hóa Đông Sơn thuộc miền Bắc từ thế kỉ thứ nhất trước Công Nguyên.
Người Chăm chính là huệ duệ của người Sa Huỳnh cổ về ngôn ngữ, văn hóa, là xã hội tiền sử của thời đại Kim khí. Người Chăm giỏi nghề thủ công mĩ nghệ, rất khéo tay, đã chế tác ra rất nhiều trang sức bằng đá, thủy tinh, sắt. Họ biết trao đổi buôn bán với các quốc gia láng giềng trong khu vực Đông Nam Á bằng đường bộ, đường biển.
Hãy cùng Golden Life Travel tìm hiểu về những nhà nước cơ bản của Chăm pa
Nội dung bài viết
Nhà nước đầu tiên của Champa được biết đến là Lâm Ấp vào năm 192. Nhà nước này đã từng có mặt tại khu vực thuộc Huế ngày nay. Người Lâm Ấp đã tiếp thu nền văn minh, tín ngưỡng Ấn Độ.
Vào khoảng thế kỉ IV người Chăm pa được tìm thấy đã dùng chữ Phạn khắc trên các bia đá. Ngoài ra còn có cả chữ Chăm thể hiện qua ngôn ngữ nói Chăm.
Tại Thánh Địa Mỹ Sơn vua Bhadravarman đã cho xây dựng ngôi đền thờ tên Bhadresvara được kết hợp giữa tên của nhà Vua và tên của thần Shiva – Vị thần hủy diệt trong Ấn Độ giáo, với ý nghĩa hủy diệt những cái cũ kĩ, lỗi thời để tiếp nhận những thứ mới mẻ, tiến bộ. Người Chăm quan niệm thờ Vua như thờ Thần.
Người Lâm Ấp yêu thích ca nhạc nhưng lại hiếu chiến, họ cũng đã xâm lược Việt Nam nhưng không thành công. ( Bắc Việt ngày nay). Lâm Ấp cũng bị xâm lược bởi nhà Tùy, sau đó thời Nhà Đường các Vua Lâm Ấp xin trở thành một nước phiên thuộc Trung Quốc.
Theo tài liệu Trung Quốc khoảng năm 756 Công Nguyên thời Lâm Ấp khép lại sau cái chết của vị Vua Lâm Ấp cuối cùng.
Sách sử Trung Quốc còn ghi nhận một loạt quốc gia nằm phía Nam Lâm Ấp như Tây Đồ thuộc Trà Kiệu – Quảng Nam, Ba Liêu thuộc Châu Sa – Quảng Ngãi.
Cái tên Chăm pa có từ năm 877.
Hoàn Vương ( 757 – 859 )
Năm 757 trung tâm văn hóa, chính trị của nhà nước Chăm pa chuyển từ Trà Kiệu về phía Nam là khu vực Panduranga và Kauthara. Thánh địa tôn giáo nằm quanh quần thể tháp PoNagar Nha Trang ngày nay, kinh đô lầ Virapura nằm gần Phan Rang ngày nây.
Đây là thời ki khá hưng thịnh của Chăm pa
Năm 774 người Java phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar lấy cắp tượng thần Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đuổi theo giặc, đánh bại chúng trong một trận thủy chiến, xây dựng lại Tháp Po Nagar.
Năm 787 người Java tấn công kinh đô Virapura, đốt đền thờ Shiva ở Pandurangaa.
Năm 875 vua Indraavarman II đã xây dựng triều đại mới Indrapura tại làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay. Vua Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo đại Thừa, ông xây dựng tu viện Phật giáo, thờ Quán Thế Âm Bồ Tát. Các vị vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thể kỉ 9 và Thế kỉ10.
Thời kì Phật Giáo ảnh hưởng ở Chăm pa kết thúc vào năm 925. Chăm pa bước vào giai đoạn phục hồi đạo thờ thần Shiva sau đó, vào thế kỉ 10. Trung tâm tôn giáo của người Chăm chuyển từ Đồng Dương về Mỹ Sơn. Có thể nói đây là thời gian đạt đỉnh cao của văn minh Champa.
Chăm pa nằm trên các vị trí lý tưởng về thương mại, nên thường xuyên xảy ra các cuộc chiến tranh với người Việt phía Bắc, người Chân Lạp phía Tây Nam. Có hai giai đoạn Chăm pa thuộc cai trị của Khmer, giai đoạn từ năm 1145 – 1149 và từ năm 1190 – 1220. Chăm pa cũng thành công trong cuộc chiến với đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 với ý đồ lấy Chăm pa để làm bàn đạp tấn công tiếp chiếm Đại Việt.
Các cuộc chiến tranh liên miên giữa Chăm pa với Đại Việt làm Chăm pa mất dần lãnh thổ, dẫn đến suy yếu và sụp đổ.
Năm 1000 người Chăm di chuyển xuống vùng Vijaya thuộc Bình Định ngày này. Kinh đô là Đồ Bàn hay Chà Bàn. Ngày nay người Việt gọi là Thành Đồ Bàn hay Thành Chà Bàn.
Trong suốt 5 thế kỉ xảy ra các cuộc chiến tranh liên miên giữa Chăm pa và Đại Việt vào các năm 1021, 1026,1044. Năm 1069 quân Đại Việt tấn công Chăm pa. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh, ông đã đổi 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính gần biên giới với Đại Việt để được trả tự do.
Đến năm 1307 quan hệ giữa Chăm pa và Đại Việt khá tốt đẹp, vua Java Simhavarman III ( Chế Mân ) nhượng hai châu: Châu Ô và Châu Lý cho Đại Việt làm của hồi môn để hỏi cưới Huyền Trân Công chúa, con vua Trần Nhân Tông, từ đó Chăm pa chỉ còn lãnh thổ từ sông Thu Bồn trở vào.
Đấng cưới khoảng chừng hơn một năm Chế Mân qua đời, nguyên nhân vẫn còn bí mật. Huyền Trân bỏ về Đại Việt, sâu này bà đi tu ở tại Bắc Ninh ngày nay.
Sau khi Chế Mân qua đời không rõ nguyên do, Che Bonguar ( Chế Bồng Nga ) lên ngôi năm 1360. Chế Bồ Nga là cái tên mang lại nỗi ám ảnh cho Đại Việt thuở ấy. Ông đòi lại đất đai hai Châu mà Chế Mân đã cắt cho Đại Việt. Đòi đất không được, nên từ năm 1371 đến 1389, Chế Bồng Nga liên tiếp mở 14 cuộc tấn công ra Thăng Long, kinh đô của Đại Việt. Chế Bồng Nga tử trận trong trận chiến cuối cùng vào năm 1389, nguyên nhân do một hàng tướng chỉ điểm chiến thuyền ông cho quân Đại Việt bắn cháy thuyền và chặt đầu Chế Bồng Nga. Kết thúc giai đoạn các cuộc chiến khủng khiếp mang tên Chế Bồng Nga.
Một vị tướng của ông là La Ngai ( La Khải ) rút về Vijaya để lên ngôi. Sau thời kì Chế Bồng Nga, Đại Việt liên tục tấn công chăm pa vào các năm 1402, 1446, Chăm pa mất dần lãnh thổ.
Đến năm 1471 vua Lê Thánh Tông chỉ huy tấn công Chăm pa, phá hủy kinh đô Vijaya. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường giải về Thăng Long. Vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập vùng Amaravati và Vijaya lập ra Thừa Tuyên Quảng Nam.
Một vị tướng Chăm tên là Bô Trì Trì chạy vào Nam chiếm vùng Panduranga xưng vua người Chăm, xin nộp cống xưng thần với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho xứ Kauthara tức vùng Phú Yên Khánh Hòa và nước Nam Bàn tức hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá thuộc Gia Lai, kon Tum và Đắk Lắk ngày nay. Thất bại lớn này dẫn đến một số người Chăm di cư qua Campuchia và Malaca sinh sống. Kết thúc 5 thế kỉ phát triển rực rỡ nhất của Vương quốc Chăm pa tại xứ Vijaya.
Bàn La Trà Duyệt xứ Kauthara (Hoa Anh ) là người được vua Lê Thnahs Tông phong vương. Bàn Lâ Trà Duyệt bí mật xây dựng lực lượng nhằm khôi phục lại Vijaya. Ông còn sai sứ sâng nhà Minh cầu xin trợ giúp tuy nhiên đã bị bai lộ và bị bắt vào năm 1490. Tiếp đó vua Lê Thánh Tông đưa Jayavarman (Trai Á Ma Phất Am ) lên ngôi xứ Kauthara.
Năm 1578, Lương Văn Chánh, tướng của Nguyễn Hoàng cầm quân tiến đánh Kauthara, hạ thành Hồ, thành kiên cố đồ sộ nhất của Chăm pa, thành nằm tại huyện Phú Hòa, phía Tây thành phố Tuy Hòa ngày nay. đẩy Kauthara về phía Nam đèo Cả, đưa người Việt đến khai khẩn sinh sống từ Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Rằng. Trong khoảng 3 năm cuối thế kỉ XVI và đầu thế kỉ XVII, Panduranga từ phía Nam nhiều lần tái chiếm Kauthara, đuổi người Việt ra khỏi vùng đất này.
Năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng cử một viên tướng Chăm là Văn Phong, đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên.
Năm 1653 nhân sự việc vua Chăm Po Nraop quấy phá biên giới phía Nam, chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho tấn công Chăm pa, tiên đến sông Phan Rang, bắt vua Po Nraop đưa ra Huế.
Trên vùng đất của tiểu vương quốc Kauthara, chúa Nguyễn Phúc Tần lập ra hai phủ là Thái Khang – nay là
Ninh Hòa và Diên Ninh – Nay là Diên Khánh, Nha Trang, Cam Lâm và Cam Ranh. Cũng vào năm 1653 Kauthara đã hoàn toàn bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. kauthara thất thủ. Đền Po Nagar rơi vào taamf kiểm soát của nhà Nguyễn. Vua Chăm quyết định rước tượng Po Nagar về Phan Rang để thờ phụng trong ngôi đền ở Mông Đức gần làng Hữu Đức Phân Rang ngày nay.
Từ 1471 phần đất còn lại của vương quốc Chăm pa hay Chiêm Thành chỉ còn từ đèo Cả ngầy nam trở về phía Nam gồm hai vùng đất Panduranga vầ Kauthara.
Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor tấn công quân Bồ Đầò Nha ở Malaca.
Năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thực hiên Nam tiến đầu tiến trấn giữ Thuận Quảng tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông – Bắc Phú Yên đến Đèo Cả – Bắc Khánh Hòa của Chăm pa lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ.
Năm 1629, Văn Phong liên kết người Chăm nổi lên chống chúa Nguyễn. Chúa Sãi cử phó tướng Nguyễn Hữu Vinh đem quân dẹp yên và đổ tên phủ Phú Yên thành Dinh Trấn Biên.
Năm 1631, Chúa Nguyễn gả con gái Ngọc Khoa cho vua Chăm là Po Rome. Quan hệ Việt – Chăm trở nên tốt đẹp ( Có sách gọi Ngọc Hoa )
năm 1653 Po Nraop quấy nhiễu ở vùng đất Phú Yên, chuấ Nguyễn Phúc Tần cho 3000 quân sang đánh hạ thành. Po Nraop chạy trốn, sau xin hàng, kauthara rơi vào tay chúa Nguyễn Phúc Tần. Chăm pa chỉ còn lại vùng Panduranga.
Năm 1693 tướng Nguyễn Hữu Cảnh một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Chu tấn công Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Phú Xuân, và đưa em trai của Po Sout là Po Saaktiray Da Patih lên ngôi Vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn. Vua Chăm pa được gọi lầ Trấn vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ cai trị này duy trì mãi đến năm 1838 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và đầu triều đại Nhà Nguyễn. Tuy nhiên các đời vua Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được ối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận.
Sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng phân bổ lại hành chính, chia Bình Thuận trấn thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của Hoàng gia Chăm.
Năm 1822 vị vua cuối cùng của Chăm pa Cơng Can rời đô Bal Canar về Tịnh Mỹ thuộc Phan Rí, lưu vong tại Campuchia.
Năm 1832 người Chăm lại nổi dậy chông vua Minh Mạng nhưng không thành công. Chnhs quyền tự trị hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832 khi Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai quản trực tiếp.
Lịch sử vương quốc Chăm pa chấm dứt tại đây
Lịch sử đất Đêga Tây Nguyên tách khỏi lịch sử Chăm pa từ 1471.
Sau khi Chăm pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá của người Ê Đê và Gia rai tức Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của Nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc.
từ thế kỉ X đến thế kỉ XV lãnh thổ vương quốc Chăm pa có nhiều biến động về biên giới phía Bắc Đại Việt. Ban đầu lãnh thổ Chăm pa từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận.
Đến năm 1069 vua Rudravarman đã nhượng ba châu cho vua Lý Thánh Tông: Địa Lý ( Lê Thủy, Quảng Ninh tỉnh quảng Bình ngày nay), Ma linh ( Bến Hải, Quảng Trị ngày nay ) và Bố Chính ( Các huyện Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa Quảng Bình ngày nay ).
Lãnh thổ Chăm pa chỉ còn từ Quảng Trị trở xuống.
Đến 1306 Vua Jayasimhavarman III Chế Mân nhượng 2 châu Ô và Lý cho nhà Trần ( từ Quảng Trị đến Đà Nẵng, Điện Bàn.
Đến 1471 vua Lê Thánh Tông đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn lãnh thổ Chiêm vào Đại Việt.
Lãnh thổ Chiêm chỉ còn lại Phú Yên – Khánh Hòa – Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.
Về phía Tây lãnh thổ Chăm pa bao gồm cả Tây nguyên và đôi khi còn mở rộng sang phía Lào ngày nay.
Người chăm vẫn duy trì lối sống của người đi biển chỉ định cư ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam.
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam Bàn thành tiểu quốc gia sơ khai riêng cho người Giarai và Ê Đê và cũng từ đó miền đất Tây Nguyên không thuộc về Chăm pa